Cụ Phạm Phú Thứ – Vị Tiến sĩ người Quảng Nam

Chân dung cụ Phạm Phú Thứ, chụp năm 1863, khi cụ chuẩn bị đi sứ sang Pháp và Tây Ban Nha cùng cụ Phan Thanh Giản.

Đoàn Sứ bộ triều đình Huế năm sang Pháp năm 1863 để thương-thuyết chuộc lại 3 tỉnh Nam Kỳ, trong giải đoạn này, các cụ được chụp nhiều ảnh chân dung, mặc thường phục và triều phục, dưới mỗi chân dung đều ghi khá rõ tên tuổi, chức vụ…
Cụ Phạm Phú Thứ 范富庶 [1821 – 1882], trước khi đỗ ,tên là Phạm Hào, khi đỗ Tiến sĩ được vua Thiệu Trị đổi tên là Phú Thứ.
Tên tự: Giáo Chi 教之
Hiệu: Trúc Đường 竹堂,
Biệt hiệu: Giá Viên 蔗園
Thụy hiệu-Phẩm tước : Văn Ý công 文懿公 [truy tặng]
Quê quán: huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.


Khoa bảng:

Thi Hương: Giải nguyên.

Khoa thi Hội năm 1843: Hội nguyên.
Thi Đình: Tiến sĩ cập đệ.

Phẩm hàm: Tòng Nhất phẩm.
Các chức vụ đã kinh qua:

  1. Hàn lâm viện biên tu [1844]
  2. Tri phủ Lạng Giang [1845] [1846 thăng hàm Thị độc]
  3. Khởi cư trú ở Tập Hiền viện [thư ký ghi lời nói và hành động của vua].
  4. Kinh diên giảng quan [dạy dỗ các hoàng tử, thân vương]
  5. Thừa Nông dịch [ lính trạm chuyên chạy về việc canh nông ở trạm Thừa Nông, Huế].
    [ Năm 1850, thấy vua Tự Đức ham vui chơi, lơ là việc triều chính, cụ mạnh dạn dâng sớ can gián, nên bị cách chức và giam ở nhà lao Thừa Phủ. Xét án, triều đình khép cụ vào tội Đồ và phạt đày đi xa; án dâng lên, vua lại cho rằng đó chỉ là “lời nói khí quá khích, không nỡ bỏ, nhưng răn về tính nóng bậy”, nên cụ chỉ bị cách hết phẩm hàm chức vụ rồi bị đày làm lính trơn].
  6. Phục hồi chức Biên tu [1852]
  7. Tri phủ Tư Nghĩa [Quảng Ngãi], [tại đây, cụ tổ chức và vận động dân chúng lập được hơn 50 kho nghĩa thương để phòng khi có mất mùa, thiên tai, dịch bệnh thì đem chẩn tế cho dân]
  8. Lễ bộ Viên ngoại lang.
  9. Làm tướng đánh dẹp cuộc bạo động của người Thượng ở Đá Vách, Quảng Ngãi, đánh thắng và dẹp tan cuộc nổi loạn [1855].
  10. Án Sát sứ Thanh Hóa -Hà Nội.
  11. Nội các quan tại Huế [1858] [ năm 1859, cụ xin về quê để dưỡng bệnh và cải táng mộ cha. Khi trở lại triều, cụ dâng sớ xin đắp đê Cu Nhí, đào sông Ái Nghĩa, đồng thời xây dựng công sự bố phòng và luyện tập quân sự ở tỉnh nhà Quảng Nam]
  12. Thị lang bộ Lại, thăng lên Thự Tham tri [ 1860].
  13. Phó Chánh sứ đoàn đi Pháp- Tây Ban Nha [ Đầu năm 1863, sau khi vua Tự Đức xét trong mấy điều khoản trong Hòa ước Nhâm Tuất còn có chỗ chưa thỏa, liền sung Phạm Phú Thứ làm Khâm sai vào ngay Gia Định, hội với Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp để đàm phán với Pháp và Tây Ban Nha. Tại các cuộc đàm phán, cụ quyết không nhượng bộ những yêu cầu quá đáng của Pháp và Tây Ban Nha về vấn đề bồi thường. Đàm phàn đổ vỡ, triều đình bỗng quy tội cụ không hoàn thành nhiệm vụ, phải bị giáng một cấp. Tháng 5 [Âm lịch, 1863] cụ được cử làm Phó sứ, cùng với Chánh sứ Phan Thanh Giản và Bồi sứ Ngụy Khắc Đản, sang Pháp và Tây Ban Nha với nhiệm vụ xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ].
    14.Tham tri bộ Lại [1864, Tháng 2 [âm lịch] năm 1864, sứ bộ từ Pháp về đến Huế, tận mắt chứng kiến sự phát triển về khoa học công nghệ Tây, nên cụ đã dâng nhiều bản tường trình cốt để thuyết phục vua Tự Đức mau “cải cách việc học tập và phát triển công nghiệp”, cụ còn dâng lên vua hai tác phẩm làm trong chuyến đi, đó là Tây hành nhật ký và Tây Phù thi thảo. Vua xem cảm động, có làm một bài thơ để ghi lại việc này.
  14. Thự Thượng thư bộ Hộ, sung Cơ mật viện đại thần [1865]
    Ở chức vụ này, cụ đã mật tâu xin đặt 4 Tuyên phủ sứ ở Quảng Trị, Bình Định, Nghệ An và Hưng Hóa; đồng thời xin đặt trường giao dịch chợ búa, sửa thuế thương chính, lập thổ tù ở các nơi ấy để làm mạnh vững nơi biên phòng, nhưng vua quan bàn ngược bàn xuôi, việc rút cục không thành.
  15. Chánh sứ hòa đàm với Pháp [1866, Pháp phái tàu chiến đến cửa Thuận An đưa thư đòi quản luôn ba tỉnh là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên, vì ở đây bọn trộm cướp thường qua lại (ý nói các cuộc khởi nghĩa chống Pháp) . Nhà vua liền sai Phạm Phú Thứ và Phan Huy Vịnh đến đàm phán nội dung là : xin giữ giao ước cũ lâu dài. Pháp ậm ừ nước đôi.
  16. Lại bị triệu về kinh đô tạm đình chỉ hết chức tước [ năm 1867, cụ Phan Thanh Giản mất, triều đình cử cụ làm người điều đình với Pháp. Họp nhiều lần, cụ kiên quyết không nhượng bộ thêm đất, Pháp tuyên bố không đàm phán thêm vì cách xử sự cứng rắn của cụ, còn triều đình Huế thì không hài lòng vì việc thương lượng cứ đỗ vỡ. Cuối cùng cụ bị ninh thần và Ngự sử đàn hặc, và bị gọi về kinh “hậu cứu”].
  17. Thấy triều đình mãi không canh tân, cụ dâng sớ nói nhiều câu hơi quá, lại bị xàm tấu nên bị giáng làm Thị lang, rồi khai phục chức Tham tri [1873].
  18. Thự Tổng đốc Hải Yên [còn gọi là Hải An, gồm Hải Dương và Quảng Yên] kiêm sung Tổng lý thương chánh Đại thần [1874, triều đình cho mở nhà thương chính ở Bắc Kỳ. Nhà vua cho cụ “là người am hiểu, và có tài cán lão luyện” nên tháng 10 âm lịch cho ra Bắc Kỳ nhậm chức. Đến nơi, gặp lúc đê huyện Văn Giang vỡ, nước lũ tràn cả hai phủ là Bình Giang và Ninh Giang, thấy dân đói khổ, cụ lập tức xin trích năm vạn phương gạo ở kho Hưng Yên để phát chẩn. Đồng thời, lại phái thuộc hạ đem những người dân còn khỏe mạnh đến Đông Triều, Nam Sách… khẩn hoang, cày cấy kiếm sống.
  19. Tổng đốc Hải An , cụ xin đặt cơ sở thu mua gạo ở chợ An Biên và Đồ Sơn, đồng phái Thương biện là Lương Văn Tiến (anh em họ ngoại với Phú Thứ) đi hiểu dụ lưu dân, tạo công ăn việc làm cho họ để họ thôi “càn rỡ, ngang ngược”. Ngoài ra, cụ còn cho khai rộng sông ở phủ Bình Giang, mở Nha Thương chánh và trường học chữ Pháp ở Hải Dương vào năm 1878, ngoài ra cụ còn mở lớp học tiếng Anh, Tây Ban Nha, cho viết các bản thông báo ” tin tức ” hàng ngày ( về giá cả hàng hóa, các vụ phạm tội, các thông báo của quan…,tức là ông tổ của báo chí ngày nay)…
  20. Thự Hiệp biện Đại học sĩ [1878].
  21. Quang lộc tự khanh, Tham tri bộ Binh.
    [1880, giáng cấp, nguyên do thấy cụ cải cách nhiều quá, các quan bỗng run sợ, bèn lại xàm tấu em trai cụ đi buôn gạo với nước ngoài, vua ba phải nên lại cách chức cụ. Chán nản, cụ xin từ chức về quê.
    Cụ Phạm Phú Thứ được đánh giá là một vị quan hết lòng vì dân vì nước, ngoài cụ Nguyễn Trường Tộ, cụ cũng dâng rất nhiều bản tấu xin mở cửa thông thương, cải cách kinh tế, văn hóa, giáo dục. Ngoài ra, cụ cũng bắt tay hành động thực hiện chứ không phải nói xuông.
    Cụ tự dịch và cho khắc in để phổ biến một số sách thực dụng do người Trung Quốc dịch từ sách tiếng Anh ra chữ Hán, như:
  22. Bác vật tân biên [sách viết về khoa học]
  23. Khai môi yếu pháp [ viết về cách khai mỏ] 3. Hàng hải kim châm (viết về cách đi biển], 4. Vạn quốc công pháp [ viết về cách thức giao thiệp quốc tế].
    ….và nhiều sách khác.
    Vua Tự Đức nửa muốn đổi mới, nửa không, lại thêm các quan bảo thủ xàm tấu, nên không chấp thuận các bản tấu của cụ, dù vua có xem và khen.

Nguồn: Facebook Tran Trung Dung

Related Posts
GIA ĐỊNH NGŨ HỔ TƯỚNG

GIA ĐỊNH NGŨ HỔ TƯỚNG - 5 vị danh tướng theo Đức Thế Tổ chống lại Tây Sơn trong 25 Read more

Long bào triều Nguyễn “cửu ngũ chí tôn” và uy quyền tuyệt đối của nhà Vua

Long bào có những quy định chặt chẽ dựa trên các tiêu chí đặc biệt, biểu tượng tính chất “cửu Read more

Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh

Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh với công cuộc khai phá miền Nam góp phần vào định hình lãnh thổ Read more

Phạm Phú Thứ – Vị tiến sĩ người Quảng Nam(Wiki)

Phạm Phú Thứ (chữ Hán: 范富庶; 1821 – 1882), trước khi đỗ ,tên là Phạm Hào (khi đỗ Tiến sĩ Read more

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *